Ngày 19/8/2025 đánh dấu một sự kiện lịch sử quan trọng: kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân và 20 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đây là dịp để chúng ta cùng nhìn lại và tri ân những nỗ lực, đóng góp và hy sinh của cán bộ, chiến sĩ lực lượng Công an nhân dân, cũng như đội ngũ cán bộ cơ sở đã và đang cống hiến vì sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Quá trình hình thành và phát triển của Công an nhân dân Việt Nam có nhiều mốc lịch sử quan trọng. Trong cao trào Xô viết Nghệ – Tĩnh (1930-1931), các ‘Đội tự vệ đỏ’ được thành lập để hỗ trợ và bảo vệ quần chúng nổi dậy, phá nhà giam, đốt huyện đường, vây đồn lính, bắt giữ bọn hào lý và làm tan rã chính quyền tay sai của đế quốc ở cơ sở. Những kinh nghiệm quý báu từ thời kỳ này đã giúp Đảng ta rút ra bài học về công tác xây dựng và duy trì, phát triển các tổ chức tự vệ, gắn liền với bảo vệ thành quả cách mạng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng (tháng 3-1935) đã thông qua Nghị quyết về Đội tự vệ. Khi cuộc vận động Mặt trận Dân chủ phát triển, Trung ương Đảng chỉ thị: Mỗi ấp phải tổ chức ra Đội tự vệ để ngăn cản những kẻ phá rối và đối phó với các lực lượng phản động. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, một năm sau, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Nhân dân ta chịu cảnh ‘một cổ, hai tròng’. Phong trào cách mạng chịu sự đàn áp, khủng bố ác liệt. Đảng ta rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật.
Đầu năm 1940, Trung ương Đảng chủ trương thành lập ‘Ban công tác đội’ làm nhiệm vụ bảo vệ An toàn khu (ATK), bảo vệ cán bộ cao cấp của Đảng, giải thoát cán bộ khi bị địch bắt. ‘Ban công tác đội’ được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, được trang bị vũ khí và huấn luyện về kỹ thuật chiến đấu. Ngày 15-5-1945, Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập ‘Đội danh dự trừ gian’ do Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ diệt trừ bọn Việt gian đầu sỏ và vũ trang tuyên truyền, chiến đấu khi cần thiết.
Ngày 4-6-1945, Tổng bộ Việt Minh tuyên bố thành lập Khu giải phóng (Cao – Bắc – Lạng – Hà – Tuyên – Thái); đồng thời, công bố Mười chính sách lớn của Việt Minh. Ngay sau đó, các tổ chức ‘Đội trinh sát’, ‘Đội hộ lương diệt ác’ lần lượt ra đời cùng với 2 ‘Đội tự vệ đỏ’, ‘Ban công tác đội’ và ‘Đội danh dự trừ gian’ làm nhiệm vụ thủ tiêu lực lượng của phát xít Nhật, trừ khử bọn Việt gian, trừng trị bọn lưu manh, bảo vệ chính quyền cách mạng, thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đây là các tổ chức tiền thân của Công an nhân dân Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội. Cùng với việc đập tan các cơ quan đàn áp của địch và thiết lập chính quyền cách mạng, các tổ chức đầu tiên của Công an nhân dân cũng được thành lập. Tại Bắc Bộ, lập Sở Liêm phóng; tại Trung Bộ, lập Sở Trinh sát; tại Nam Bộ, lập Quốc gia tự vệ cuộc. Dù tên gọi ở ba miền khác nhau nhưng các tổ chức đầu tiên của Công an nhân dân đều có chung nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.
Trong những ngày đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lực lượng Công an nhân dân đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Công an nhân dân đã đẩy mạnh các phong trào ‘Ba không’, ‘Ngũ gia liên bảo’, phối hợp với các lực lượng vũ trang đấu tranh chống hoạt động do thám, gián điệp và bọn phản động tay sai; bẻ gãy nhiều cuộc càn quét của địch, bảo vệ hậu phương và khu căn cứ kháng chiến.
Đặc biệt, ngày 12/7/1946, Nha Công an Trung ương đã khám phá thành công vụ án phản cách mạng ở số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, thành phố Hà Nội); phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nhân dân đồng loạt tấn công, bóc gỡ 40 trụ sở Quốc dân Đảng, bắt trên 100 tên phản động, đập tan âm mưu đảo chính, lật đổ chính quyền cách mạng của thực dân Pháp và bọn phản động. Chiến công này không chỉ đập tan âm mưu của các phần tử phản động câu kết với đế quốc để cướp chính quyền ở Hà Nội bằng một cuộc đảo chính, mà còn làm cho mọi người thấy rõ bộ mặt phản quốc của tay sai và nhận thức rõ hơn chính sách đại đoàn kết dân tộc của Chính phủ, từ đó củng cố lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của Đảng.